Phân loại rối loạn ngôn ngữ Rối_loạn_ngôn_ngữ

Phân loại rối loạn ngôn ngữ tùy thuộc vào vị trí của tổn thương trên hệ thần kinh trung ương. Các hội chứng rối loạn ngôn ngữ thường gặp trong thực hành lâm sàng thường nằm trong các bệnh cảnh có đi kèm với các dấu hiệu thần kinh định vị khác. Đôi khi, người bệnh chỉ có rối loạn ngôn ngữ đơn thuần. Trong các trường hợp này, nguyên nhân do tổn thương não vẫn cần được nghĩ đến đầu tiên.

Rối loạn ngôn ngữ Broca

Rối loạn ngôn ngữ Broca được biểu hiện bằng dấu hiệu thông hiểu còn tốt nhưng lại giảm lưu loát và giảm khả năng lặp lại. Đây là hội chứng rối loạn ngôn ngữ đầu tiên được xác định, thường đi kèm với yếu liệt và mất cảm giác nửa người bên phải.

Vị trí tổn thương trong rối loạn ngôn ngữ Broca là tại phần nắp trán, hồi trán giữa, vùng vỏ não vận động thấp, tiểu thùy đỉnh dưới, thể vân ngoài, bao trước bên và toàn bộ chất trắng từ dưới vỏ cho tới chất trắng quanh não thất.

Rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ

Người bị rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ vẫn có khả năng thông hiểu tốt và lặp lại tốt nhưng không diễn tả ngôn ngữ lưu loát được. Biểu hiện điển hình là bệnh nhân thay đổi cách phát âm và giai điệu lời nói trở nên lộn xộn.

Vị trí tổn thương trong rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ có thể nằm bất cứ đâu trên thùy trán bên trái.

Rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ

Ngược lại với rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ, trong rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ, đặc trưng của lời nói là vẫn giữ được tính lưu loát tốt, lặp lại tốt trong khi thông hiểu lại giảm. Cụ thể là người bệnh vẫn có thể nói ra những câu dài rõ ràng, đúng ngữ pháp, trôi chảy nhưng lại không tương xứng với câu hỏi.

Rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ có vị trí tổn thương là tại chỗ nối thái dương – đỉnh – chẩm phía sau hồi thái dương trên và có thể chồng chéo lên vùng sang thương của rối loạn ngôn ngữ Wernicke.

Rối loạn ngôn ngữ xuyên vỏ hỗn hợp

Sự phối hợp của cả hai rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ và rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ là rối loạn ngôn ngữ xuyên vỏ hỗn hợp. Trong đó, người bệnh vừa mắc phải giảm lưu loát và giảm thông hiểu trong khi khả năng lặp lại vẫn còn tốt. Cụ thể là bệnh nhân chỉ nói được những lời tự phát, các câu ngắn là có khuynh hướng lặp đi lặp lại như cũ khi được đặt câu hỏi.

Rối loạn ngôn ngữ Wernicke

Rối loạn ngôn ngữ Wernicke còn gọi là rối loạn ngôn ngữ cảm giác và trái ngược với rối loạn ngôn ngữ Broca là do tổn thương vận động. Điển hình là người bệnh vẫn tự thể hiện bằng lời nói lưu loát với các câu nói dài, trơn tru, đúng ngữ pháp; cách phát âm và nhịp điệu lời nói vẫn bình thường. Tuy nhiên, khả năng nghe hiểu và làm đúng yêu cầu hay trả lời đúng câu hỏi lại kém.

Vị trí của tổn thương gây rối loạn ngôn ngữ Wernicke là một vùng rộng lớn ở vùng thái dương trên sau.

Rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền

Rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền chỉ gây khiếm khuyết khả năng lặp lại trong khi khả năng thông hiểu và lưu loát vẫn còn tốt. Theo đó, bệnh nhân vẫn trả lời đúng các câu hỏi bằng những câu nói dài, lưu loát. Tuy nhiên, khi yêu cầu bệnh nhân lặp lại một câu nói hay kể lại câu chuyện, đọc chữ thành tiếng thì lời nói lại trở nên lộn xộn và có hiện tượng thay thế chữ.

Sang thương gây bệnh trong rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền chỉ nằm khu trú ở tiểu thùy đỉnh dưới trái.

Rối loạn ngôn ngữ toàn bộ

Rối loạn ngôn ngữ toàn bộ là thể nặng nề nhất trong các loại rối loạn ngôn ngữ. Người bệnh bị mất tất cả các chức năng nói một cách trầm trọng, bao gồm cả chức năng ngôn ngữ vận động và ngôn ngữ cảm giác.

Tổn thương não trong rối loạn ngôn ngữ toàn bộ thường là một vùng lớn tại trung tâm nói ở vùng trước và sau rãnh vỏ não Rolando. Nguyên nhân thường là do nhồi máu não toàn bộ động mạch não giữa bán cầu ưu thế.[6]

Liên quan